Author: Phương (aka
phuong_rong0735)
Fandom: KAT-TUN
Pairing: Akanishi Jin/Kamenashi Kazuya
Disclaimers: only the story belongs to me.
Genres: Romance. Angst. Comfort/Hurt. Lime
Rating: M (P-G 15)
Warning: OOC (maybe)
A Vietnamese fanfic.
Part I Part II Part III IV.
Mưa lớn. Những vệt mây màu xám đục như dán chặt vào bầu trời. Với sự giúp sức của những cần gạt nước đang làm việc hết công suất, đám ô tô bốn bánh xếp thành một hàng dài, kiên nhẫn đứng chờ đèn đỏ ở ngã tư phía trước khu Oto. Vài cửa hàng đã treo biển Closed kể từ lúc có tin cơn giông đột ngột kéo về thành phố từ bán đảo Enoshima phía Nam. Ngang qua các cửa tiệm lớn, cách mỗi giờ, bản tin về thời tiết lại đều đều vọng ra bằng giọng nói vô cảm của người biên tập viên.
Tôi đi nhanh trên vỉa hè, che một chiếc ô màu nâu sẫm, cố hết sức tránh sát vào trong mỗi khi một chiếc ô tô nào đó từ xa lao tới, đèn pha sáng choang nhưng vẫn không xuyên thủng qua được màn mưa dày đặc. Ở phía trước tôi, cách tôi mười hai bước chân và một vị khách bộ hành đang hối hả đi về hướng ngược lại, là Kame. Chiếc ô màu xanh rêu của cậu ấy di chuyển nhanh và đều về phía trước. Những bước chân siêng năng và cần mẫn, tựa như chủ nhân của nó không hề mảy may quan tâm đến bất cứ việc gì khác. Như thể việc quan trọng nhất của cậu ta trong ngày mưa hôm nay chỉ là đi dọc theo vỉa hè mà thôi.
Chúng tôi đang đi đến khu Shinjuku. Là tôi suy đoán thế. Kame vẫn chưa một lần đả động đến địa điểm nào kể từ lúc chuyến đi bắt đầu.
Buổi tập của chiều hôm nay đã được hoãn lại vì chuyên gia vũ đạo, vốn là một người Mỹ gốc Nhật chỉ vừa đến Nhật vào ba ngày trước theo lời mời của Jimusho, đã không cách nào tìm được đường đến công ty trong một thời tiết tồi tệ như thế này. Bị kẹt ở một trục đường nào đó ở khu Saeki, anh ta vẫn cố tìm ra một buồng điện thoại, gọi đến công ty, giải thích và xin lỗi bằng thứ tiếng Nhật chập chững của mình. Và thế là chúng tôi bỗng dưng có được một buổi chiều rảnh rỗi từ trên trời rơi xuống. Như mọi khi, Junno ngay lập tức ôm cái máy game của mình chạy biến. Ueda lôi ra từ mọi ngóc nghách của công ty hàng tá tạp chí và đắm mình vào đấy. Koki sau khi rap chán chê đã đời trong phòng kín, cũng phải đầu hàng thứ âm thanh dai dẳng của trời mưa, trở ra sofa đánh một giấc. Maru lại cho rằng đây là một tiết trời đầy thi vị để khởi nghiệp với thơ ca, thế nên, khi lẳng lặng rời khỏi phòng cùng với Kame, tôi đã nhìn thấy anh ta ngồi suy tư bên cạnh cửa sổ cùng giấy bút trong tay.
Trước đó, Kame vẫn rất ngoan ngoãn ngồi đọc thư của fans ở ghế sofa. Nhưng rồi, một sự kiện quái quỷ gì đó đã xảy ra, cậu ta đột nhiên đến gần, không nói lời nào, chỉ kéo nhẹ lưng áo tôi và sau đó biến mất ở phía cửa.
Năm phút sau đó, khi xuống tầng trệt, tôi nhìn thấy Kame đang đứng chờ sẵn ở một góc khuất gần lối ra vào. Nữ nhân viên trực ở quầy tiếp tân còn mải chú mục vào một chương trình gameshow trên internet. Kame đưa cho tôi một trong hai chiếc ô cậu chuẩn bị sẵn. Vẫn không nói thêm lời nào, hệt như một kẻ bí ấn thứ thiệt đã qua chương trình đào tạo bài bản, cậu kéo cao cổ áo khoác, bật ô, rồi băng mình vào màn mưa.
Thế đấy. Tôi chẳng có lấy một cơ hội hay chút ít thời gian để mà kịp phàn nàn lấy một tiếng.
Mùa hạ thường mang lại một sự buồn chán khó nói cho Tokyo. Bằng một cách nào đó, mỗi khi mưa xuống, thành phố lại bị quây tròn trong một sự chậm chạp rất có tác dụng ru ngủ. Tựa như vào những lúc đó, chỉ có cơn mưa là thực thể duy nhất sống động ở nơi đây. Mọi thứ khác, nhà cửa, xe cộ, con người, tiếng nói, âm thanh, chuyển động, những diễn biến cảm xúc,… đều chỉ còn lờ mờ ẩn hiện trong một trạng thái chậm chạp, trì trệ.
Đi được hơn hai mươi phút, khi tôi bắt đầu nhận ra sự quen thuộc của những ngả đường và nghĩ rằng mình có thể đoán ra được đích đến của chuyến đi này, thì Kame lại đột nhiên rẽ quặt vào một con phố nhỏ. Một con phố đi bộ với cái tên khá lạ, San Gatsu, Tháng Ba. Ngay lập tức, tôi rơi vào một suy đoán mới về mục đích thật sự của cậu.
Những cửa hiệu nhỏ nằm san sát cạnh nhau dọc theo hai bên lối đi. Phần lớn trong số đó đều đã buông kín mành. Dăm bảy hiệu sách gia đình, hàng cá kiểng dành cho dân chơi nghiệp dư, trà quán lâu năm với dư vị tinh nồng đặc trưng không lẫn đi đâu được ngay cả trong một cơn mưa, cửa hàng vải danh tiếng Phồn Thịnh, cả cửa hàng bán văn phòng phẩm. Trên đường không có nhiều người qua lại cho lắm. Chúng tôi vẫn cách nhau một quãng dăm bảy bước chân. Bị bóng ô che khuất, tôi chỉ có thể trông thấy thân người của Kame. Cậu mặc một chiếc áo choàng dài, vải dạ, che kín hoàn toàn bộ trang phục thường ngày bên trong. Theo thói quen, tay trái cậu thọc sâu vào túi áo choàng. Từ lúc chúng tôi rời khỏi công ty cho đến giờ, cậu chưa một lần ngoái lại tìm kiếm tôi. Tôi vừa thấy chán ghét thái độ này của cậu vừa bị nó làm cho thoả lòng. Một sự tin tưởng rất mực hoặc là một sự lạnh nhạt hoàn toàn, đó là cách tôi tự lý giải về thái độ của cậu.
Cuối con phố có một ngã ba khác. Kame đột ngột dừng lại khi gần đến nơi đó. Cậu ngước lên nhìn một cửa hàng bên tay phải của mình, sau đó chỉ đứng yên dưới mưa. Khi tôi đến gần hơn, cậu quay mặt lại, nói khẽ khàng từng tiếng một.
“Đến nơi rồi.”
Tôi quay qua nhìn, tìm kiếm tên quán. Chẳng có gì cả ngoài một chiếc thìa gỗ to, cao cỡ ngang vai một người lớn treo phía trước lối vào, trong lòng thìa là một hàng chữ dài những chữ Kanji viết theo chiều thẳng đứng. Ngày thứ hai tốt lành. Hnm? Một cái tên như thế có phải là quá dài dòng và quá không liên can gì đến một cửa hàng ăn uống không? Nó nghe giống như một lời chúc, tuy rằng hơi kém nhiệt tình một chúc nhưng lại có thể dành cho bất cứ ai. Giống như là, sự quan tâm của người chủ cửa hàng san ra thành những phần đều nhau và dành cho tất cả mọi người. Mỗi đợt gió thổi qua, chiếc thìa lại đung đưa chậm chạp. Bộ dạng của nó gợi lên một sự chậm rãi và lười biếng hệt như cơn mưa ngoài kia.
“Hay thật đấy, chúng ta lội bộ trong mưa để đến đây ăn mì”. Tôi nói, giọng hạ xuống thành một tiếng thì thầm đầy ý châm chọc. Thật sự thì tôi đang khá bực.
Nhìn tôi trong một lúc, Kame nói chậm. “…Vì tôi đói”. Cậu chẳng cười. Rồi sau đó cũng không giải thích gì thêm.
“Cậu sẽ mời tôi chầu này phải không?”. Tôi hỏi lớn. Nhưng trước khi người đối diện kịp trả lời, tôi đã bước qua mặt cậu tiến vào bên trong.
Tấm mành gỗ vừa được kéo qua, một bầu không khí ấm sực lập tức thổi vào người tôi. Một lò sưởi to đang tí tách cháy ngay bên dưới quầy bếp của cửa hàng. Trong khi xung quanh đó, trên bốn mặt tường của quán, là những tấm ảnh màu khổ lớn về những tô mì trông ngon lành hết sức. Chủ quán là một người trung niên chừng năm mươi tuổi, tỏ ra khá bất ngờ khi trông thấy chúng tôi. Hẳn là ông ta đã chẳng trông mong gì cửa hàng sẽ có khách trong một thời tiết như thế này. Ông ta sẽ xúc động vì sự xuất hiện không thể ngờ đến của hai vị khách tận tâm đã đến với ông ta trong mưa gió, và sẽ chiếu cố đặc biệt cho hai suất mì của chúng tôi chăng? Có thể lắm.
Sau khi gấp lại ô và đặt nó ở khu vực dành riêng cho khách, Kame chọn một bàn gần lò sưởi và chúng tôi bắt đầu xem qua thực đơn. Trong thời gian đó, sau vài câu chào mừng hồ hởi, chủ quán lại trở về với quầy bếp của mình. Ông ta đang dở tay một công đoạn quan trọng nào đó. Nhưng chỉ sau chừng vài phút, Kame đã có vẻ chán. Thay vào đó, cậu ta quay sang cởi áo khoác và rũ nước ra khỏi tóc mình. Tôi để ý thấy gương mặt cậu giờ đây đã rạng rỡ hơn lúc đầu ngày rất nhiều. Cử chỉ linh hoạt khi cậu lấy đũa và tách chúng ra cho cả hai chúng tôi. Thực đơn trong quán không quá phong phú và hầu hết đều chỉ liên quan đến mì. Có vẻ như đây là một cửa hàng với những bí quyết về mì được gia truyền từ đời này sang đời kia.
“Thế nào?”. Kame hỏi. Tôi ậm ừ trong cổ họng, thi thoảng lại ngước mắt nhìn quanh những tấm ảnh màu treo phía bên trên. Tuy rằng đã nghiền ngẫm cái thực đơn hơn mười phút nhưng tôi vẫn chưa chọn được món nào. Cơ bản là vì tôi không thật sự đói cho lắm.
Kame im lặng nhìn tôi trong vài phút. Và bỗng dưng tôi có cảm giác kỳ lạ rằng cậu đang muốn nói một điều gì đó chẳng hề liên quan gì đến mấy món mì này. Nhưng không, cậu ấy chỉ đơn giản là hướng về phía quầy, gọi to.
“Ông chủ, cho chúng tôi một suất mì hải sản”.
“Hửm? Chỉ một suất thôi à?”. Người trung niên ngẩng khỏi mặt thớt, đặt ra một câu hỏi với giọng điệu đầy vẻ ngạc nhiên. Thắc mắc của ông ta hệt như của tôi.
“Vâng, một suất lớn,…”. Kame chỉ cười, rồi cậu nói thêm, hơi nhỏ giọng. “Chúng tôi đã lỡ chi quá tay ở cửa hàng bách hoá lúc nãy. Và chúng tôi cũng không quá đói”
Người chủ quán gật đầu tỏ vẻ đã hiểu. Ông hỏi thêm vài điều về các yêu cầu đối với gia vị rồi quay đi với công việc của mình. Riêng tôi vẫn chỉ nhìn cậu ấy chăm chăm. Nói dối. Kamenashi Kazuya vừa nói dối. Tuy rằng chưa lần nào đến đây, không biết chính xác được giá cả của cửa hàng này như thế nào nhưng tôi tin rằng số tiền mang theo trong người mình lúc này hoàn toàn có thể chi trả được cho hai phần mì hải sản. Kame cũng chẳng phải dạng người có thể ra đường mà trong người có ít hơn mười ngàn yên phòng thân. Hnm, cậu ấy thật ra là đang có ý đồ gì đây nhỉ?
“Jin, đừng nhìn tôi như thế nữa, được không?”. Cuối cùng thì cậu ta cũng phải ngẩng lên, nhìn tôi một cách van nài.
“Hử? À, tôi chỉ thấy hôm nay cậu khó hiểu quá đi mất”. Tôi trả lời ngay lập tức.
“…”. Giờ thì Kame lại nhặt cái thực đơn lên và tỏ ra bận rộn với việc xem xét nó.
“Lại còn có vẻ dễ thương hơn mọi ngày nữa đấy”. Tôi vẫn tiếp tục nhận xét một cách rất chi là thành thật, nhấn mạnh chữ ‘dễ thương’ một cách nghiêm túc hết sức có thể.
“Đã bao lâu rồi anh không đi đến quán như thế này?”. Câu hỏi khá đột ngột. “Không tính những lần nhóm mình đi chung nhé”.
Tôi nhẩm tính trong đầu trước khi trả lời. “Khoảng hơn một tháng. Với bọn Ryo và YamaPi, chúng tôi vẫn thường hay---”
“Okay, được rồi Jin. Thế là quá đủ để hiểu rồi”. Câu trả lời của tôi bị cắt ngang một cách đầy lịch sự theo kiểu Kamenashi. Cái gì chứ? Tôi đã nói quá nhiều sao? Khỉ thật, tôi cảm thấy sốc một chút vì bị đối xử chẳng chút nể nang nào như thế, thật sự đấy. Trong lúc đó Kame đã nói tiếp chẳng chút do dự. “Còn tôi là một năm hai tháng”.
“Cậu tính kỹ từng ngày thế à?”. Tôi ngạc nhiên, rồi nói thêm, một cách kẻ cả và châm chọc đầy cố ý. “Như thế cũng chứng tỏ quan hệ xã hội của cậu quá kém, cần phải cải thiện lại. Bạn bè rất thường rủ nhau đi ăn quán vào cuối tuần như thế này. Nhậu nhẹt, tán dóc, thông báo tình hình các thứ cho nhau biết, đại loại thế, cậu biết đấy?”
“Anh nói phải”.
Sự đồng ý chóng vánh của Kame khiến tôi tự nhiên chẳng biết nên nói gì nữa. Có vẻ gì đó như là nhẫn nhịn và cam chịu trong cách cậu nói khiến tôi cảm thấy nói thêm bất cứ điều gì liên quan đến việc này nữa cũng là một tội ác. Tôi im bặt đi và vờ ngó vu vơ xung quanh quán để khỏi phải nhìn về phía Kame. Vừa lúc đó, may thay, chủ quán xuất hiện trở lại cùng một chiếc xoong to. Suất mì hải sản đặc biệt dành cho hai người của chúng tôi. Từ phía xa, trông nó thật hấp dẫn với những lọn khói mỏng không ngừng bốc lên và màu vàng óng của những vắt mì nằm gọn gàng trong lòng chiếc xoong trắng bạc.
“Itadakimasu!”
Chúng tôi cùng lúc cúi đầu và đồng thanh nói.
Tôi chưa vội đụng đũa ngay. Mì tuy đựng trong chiếc xoong lớn nhưng nếu xoay sở không khéo thế nào cũng xảy ra va chạm trong lúc cả hai cùng nhau ăn. Thế nên, cũng như lúc đi trong mưa để đến đây, chúng tôi lại kẻ trước người sau tuần tự thay phiên nhau ăn cho đến hết khi hết nhẵn mì trong xoong.
Kame là người ăn đầu tiên. Cậu ấy nhích người về phía trước, dùng đũa khéo léo quấn gọn một vòng mì và cho vào miệng. Đó quả là một bát mì ngon. Nước dùng màu vàng nhạt, lăn tăn những gợn mỡ màu vàng trong, sợi mì dài, mập tròn, màu sắc tươi tắn, nặng trĩu trong lòng thìa. Hải sản trắng phau được thái thành những khối hình vuông vức. Vài khoanh ớt đỏ điểm xuyết xung quanh đó và những lát hành xanh tạo nên một mùi thơm đặc trưng cho món mì Trung Hoa. Chưa kể đến làn khói trắng mỏng tang cứ lừng lững bốc lên trước mặt chúng tôi, càng tạo thêm một cảm giác huyễn hoặc quá mức cho việc thưởng thức một bát mì.
Có một vài cảm giác lạ lùng sẽ dần dần sinh ra trong quá trình thưởng thức một bát mì Trung Hoa? Bỗng dưng, mùi vị đối với tôi không còn là mối quan tâm hàng đầu nữa. Khoảng cách quá gần, không gian quán quá nhỏ, sự im lặng đến mức nghe rõ tiếng củi reo trong lò sưởi, khí lạnh ẩm ướt của một ngày mưa, tất cả những điều đó giống như một phông nền mờ tối, làm nổi bật gương mặt người thanh niên ở phía đối diện. Trong những đường nét quen thuộc thường ngày bỗng toát ra sự linh hoạt lạ lẫm khó diễn tả. Mồ hôi li ti rịn ra trên trán, trên chóp mũi và cả xung quanh khoé miệng Kame vì hơi nóng bốc lên. Tiếng động nho nhỏ phát ra khi cậu ấy nhai mì, đặc biệt là những miếng hải sản quá dày. Sau hết, đúng kiểu cách của một kẻ ăn mì Trung Hoa tôi thường thấy trên ti vi, cậu ấy bưng chiếc xoong lên và húp một ngụm lớn nước dùng. Sự thoả mãn về vị giác hiện ra ngay sau đó, qua cách chuyển động nhịp nhàng của yết hầu nơi cổ cậu và khi đặt xoong mì xuống, ánh mắt cậu nhìn tôi trong một thoáng ngây đi. Ánh mắt chỉ có khi người ta cảm thấy quá mãn nguyện về một điều gì đó…
Tôi cắn đầu đũa giữa răng, băn khoăn quan sát hết thảy những biểu cảm trên gương mặt cậu. Tôi cảm thấy mình nên tin rằng Kame thực sự đã rất đói trước khi đến đây, vì sự thoải mái có phần tuỳ tiện ngay lúc này của cậu hoàn toàn trái ngược lại con người luôn kính cẩn cầu toàn trong mọi việc mà tôi từng biết. Thậm chí, khi được tôi nhắc nhở về vệt nước vô ý dây ra bên khoé miệng, cậu cũng chỉ cười phá lên rồi điềm nhiên giật một miếng khăn giấy lớn lau đi mà chẳng tỏ ra chút ngượng ngùng nào. Chỉ có hai khả năng đối với con người này. Một là cậu ta có khả năng nhiệt tình trong bất cứ chuyện gì cậu ta tham dự vào. Hai là khoảng thời gian một năm hai tháng kia đã khiến cho ăn mì trở thành việc hạnh phúc nhất đối với cậu.
“Không ngon à?”
“Huh?”. Tôi hơi giật mình vì câu nói đột ngột.
“Anh hầu như chẳng ăn gì cả”. Kame chỉ vào đôi đũa trên tay tôi, ngờ vực.
“À, tôi không đói cho lắm”. Tôi cười trừ.
“Thật chứ?”. Cậu ta vẫn không chịu tin.
“Thật. Vì lúc nãy tôi đã lén ăn cái bánh sandwich của Junno rồi. Haha, cậu biết đấy, cậu ta giấu nó sau chồng đĩa demo, nhưng mũi tôi rất thính. Thế là tôi chén sạch ngay khi phát hiện ra. Chắc giờ cậu ta đang khóc lóc ở Ji---“
“Tôi cũng không phải là quá đói như tôi nói lúc nãy đâu”. Kame điềm nhiên cắt ngang tràng huyên thuyên của tôi.
“Hả?”
“Tôi đã nói dối một chút”. Cậu ta ngẩng lên, nói chậm từng tiếng.
“Vì tôi là một thằng mà mọi người xung quanh luôn có thể cho vào tròng một cách dễ dàng chứ gì?”. Tôi không thể kiềm được, cũng không kịp xem xét xem câu mình vừa nói ra có mang thái độ gây hấn quá hay không.
“Không quá rắc rối như vậy đâu Jin”. Kame lắc đầu, ngập ngừng một chút trước khi nói tiếp. ”Chỉ vì tôi muốn chúng ta có thể ăn mì cùng với nhau”
Tôi thở mạnh ra hơn, bắt đầu cảm thấy mình đúng là một tên ngốc chân chính. Xem xem cậu ấy đang muốn nói đến cái gì kia kìa?
“Cùng ăn với nhau một xoong mì. Chính xác hơn thì là vậy. Vì tôi cho rằng việc này cũng hay, nó thể hiện cho việc chia sẻ và gắn kết ở một mặt nào đó. Bữa ăn là biểu tượng của gia đình và hơi ấm, có phải không?”
Lời bày tỏ đột ngột khiến tôi lặng người đi. Kame vẫn tiếp tục nói.
“Lần sau tôi sẽ hỏi ý anh trước, hoặc là nói rõ ràng hơn về những gì tôi nghĩ, vì tôi hay suy nghĩ linh tinh lắm, haha, trước khi quyết định làm một cái gì đó. Như thế thì sẽ tốt hơn, nhỉ?”. Kết thúc câu nói, môi dưới hơi mím lại, cậu nhìn thẳng vào tôi.
Tôi lắc đầu ngay lập tức. Và thiệt tình cảm thấy 'lắc đầu' đúng là cái việc vô tích sự nhất trên đời mà tôi có thể làm. Suốt thời gian còn lại, một lời tôi cũng không nói được. Tôi chỉ có thể ngăn lại việc thu dọn sau đó của người chủ quán. Xoong mì chẳng còn lại gì nhiều cả. Nhưng khi hớp vào miệng ngụm nước dùng đã nguội đi của nó, tôi như nhìn thấy biểu tượng mà Kame nói. Với tôi, nó tượng trưng cho sự yên bình đơn giản, là sự im lặng thấu hiểu và nét cười nhẹ nhõm trong ánh mắt sau đó cậu ấy dành cho tôi.
~*~
Bên khu Shinjuku, tấm màn mưa mỏng hơn. Có lẽ đến tối nó sẽ dứt hẳn. Tuy thế, những con phố sầm uất ngày thường của khu thương mại nổi tiếng cũng không còn sinh động như mọi khi. Khách hàng thưa thớt và những bảng đèn neong đủ màu bị màn mưa pha nhạt, trở nên ảm đạm hơn hẳn. Lúc đi ngang qua công viên quốc gia, chúng tôi trông thấy một nhóm học sinh cao trung túa ra từ lối lên xuống của ga xe điện ngầm, có vẻ như vừa đi du lịch xa trở về, điệu bộ mệt mỏi, kéo lê những valise và túi lớn trên hè phố. Vài cửa hiệu café đầy ắp khách. Cảm giác ấm áp từ những không gian khép kín sáng ánh đèn chật kín người đó thấm qua lớp kính mỏng, lan ra cơn mưa lạnh lẽo bên ngoài, đến cuối cùng chỉ còn là những ấn tượng lờ mờ đọng lại bên trên những đại lộ sũng nước.
“Tại sao lại là Shinjuku?”. Kame lên tiếng hỏi khi những toà nhà cao tầng ngày càng hiện ra gần hơn trong tầm mắt. Chúng tôi không che ô nữa, chỉ sóng bước đi cạnh nhau.
“Vì tôi muốn đi tìm mua một cái máy ảnh Polaroid. Nó có thể tráng phim ngay sau khi chụp, rất tiện…”. Tôi ngừng một chút rồi mới nói tiếp. “…khi đi du lịch”
“Này Akanishi Jin!”. Rất nhanh, Kame gọi giật cả họ và tên tôi. Thêm một lần nữa cậu ấy phá ra cười không lý do. Tôi không thèm hỏi nguyên do vì sao cậu cười. Tôi thành công tuyệt đối trong việc vờ như chăm chú nhìn xuống lối đi bên dưới, trong khi thật ra tôi muốn biết cậu ấy đang nghĩ gì trong đầu chết đi được. Đừng nói là cậu ấy đã quên mất rồi. Chỉ mới năm ngày trước đó, chính Kame là người đã khơi ra chuyến du lịch ngắn ngày đến Hokkaido. Và giờ thì là lúc tôi trả lời. Chỉ là tôi quá ngượng để có thể nói ra một cách rõ ràng toàn bộ câu trả lời của mình.
“Hokkaido, Kame, Hokkaido ấy!”. Năm phút ngắn ngủi và dài vô tận. Rồi tôi nghe thấy giọng nói quen thuộc của chính mình vang lên. Trời ơi, nó nghe mới tuyệt vọng làm sao.
“Tôi biết”. Cậu ấy nhìn nhanh sang tôi, dáng vẻ điên rồ vừa nãy đã hoàn toàn biến mất, chỉ đáp lại một câu hoàn toàn đơn giản như thế. Cùng một nụ cười rạng rỡ trên môi.
“Cậu biết gì?”. Tôi ngừng hẳn lại giữa lối đi.
“Anoo, Hokkaido, chúng ta…”. Hừm, tôi hoàn toàn có thể nhận ra Kame đã cố tình bỏ lửng câu nói trong vài giây. “…sẽ đi cùng nhau đến đó, trong tuần lễ vàng của năm nay, có đúng không?”.
Để trả đũa lại, tôi giả tảng như chẳng nghe thấy gì và tiếp tục bước đi ngay sau đó. Cậu ấy ngay lập tức kêu lên.
“Ồ Jin, thái độ tệ quá, anh giận dỗi vì tôi thông minh đoán ra được ý anh đó à?”
“Không phải”. Tôi đứng lại, kéo quấy quá hai vạt áo khoác của mình, rồi quay mặt về phía Kame, nói một cách nghiêm nghị. “Vì bị cậu đoán đúng nên tôi thấy mắc cỡ một chút thôi. Tôi biết cậu là một cậu bé thông minh, lanh lợi, Kamenashi-kun, nhưng chưa ai nói với cậu là cần phải tỏ ra ngốc nghếch trong một số trường hợp đặc biệt hay sao?”
Mưa trở nặng hạt ngay sau câu nói của tôi. Đám người đi đường chạy nhốn nháo về phía quầy che phía trước các cửa hiệu để tránh mưa. Kame bật ngay chiếc ô cầm ở tay, bước lại gần tôi. Trước khi kéo tôi đi về phía dãy cửa hiệu chuyên bán các hàng điện máy gần đó, cậu nói rõ ràng từng tiếng một.
“Tôi đã hiểu rồi. Đi du lịch cùng nhau là một trong những trường hợp đặc biệt đó, có đúng không?”
Đời nào tôi chịu thừa nhận cậu đúng trong trường hợp này kia chứ, baka Kamenashi.
---
Mặt tiền bên ngoài tương đối bình thường nhưng không gian phía bên trong Cửa tiệm 100 yên số 2 lại dài và sâu, giống hệt bên trong lòng một chiếc xe buýt. Ánh sáng màu trắng nền nã phủ lên nơi này. Ngồi bên cạnh một bể cá kiểng nhỏ, chủ tiệm phe phẩy chiếc quạt giấy vẽ chi chít chữ Kanji trên tay, không buồn đứng dậy chào khách, chỉ ném về phía chúng tôi một cái nhìn tò mò hồ hởi.
“Chúng tôi muốn tìm mua một chiếc máy ảnh Polaroid”. Kame nói.
Mày ông ta nhíu lại trong một thoáng rồi nhanh chóng giãn ra bằng câu trả lời ngắn gọn. “Chỗ chúng tôi không có”
“Eh??? Một người bạn bảo với tôi rằng có thể tìm thấy nó dễ dàng ở Shinjuku---“
“Nhưng không phải ở một Cửa tiệm 100 yên, thưa quý khách!”. Câu nói của tôi bị cắt ngang. Hẳn nhiên là tôi đã bịa ra “người bạn” đó. Mưa đã phủ thành một tấm màn dày bên ngoài cửa tiệm. Và tôi chỉ cố tìm một cái cớ đôi co với ông ta, hòng kéo dài thêm thời gian hợp lý ở lại nơi này.
“Anoo, chúng tôi có thể xem qua các mặt hàng ở nơi đây không ạ?”. Giọng Kame lại vang lên. Rõ ràng là cậu có cùng cách nghĩ như tôi.
“Dĩ nhiên, các cậu cứ tự nhiên”. Ông ta dùng quạt chỉ một vòng qua loa khắp không gian bé tẹo của nơi đó.
Chúng tôi chia nhau ra tham quan cửa tiệm. Không có nhiều hàng hoá cho lắm. Và cái tên gọi “Cửa tiệm 100 yên” cũng đã phần nào nói lên tình trạng chất lượng của hàng hoá ở nơi này. Ở một góc nọ, tôi nhìn thấy một ấm nước cũ với lớp keo dán hoa văn bên ngoài gần như bong ra. Ngay bên cạnh đấy là máy xay sinh tố màu xanh mất đế. Một nồi cơm điện đã mất xoong hấp và chốt cắm gần như rơi ra xếp hàng ngay cạnh đó. Rất nhiều điện thoại bàn cũ đủ các nhãn hiệu xếp thành một khu riêng trên tầng cao. Máy Ipod có kiểu dáng sặc sỡ giống như hàng Trung Quốc thường thấy bày bán ở các khu chợ trời. Lại còn có cả một chiếc tủ lạnh chỉ cao đến đầu gối người ta nhét trong một góc, bên cạnh hằng hà sa số các lại chén bát làm bằng sứ bụi bám dày.
Quả nhiên không thể nào tìm thấy một chiếc máy ảnh Polaroid ở nơi như thế này được.
Khi rời mắt khỏi đống hàng hoá, tôi đảo mắt tìm Kame. Phát hiện ra cách tôi không xa cho lắm, cậu đang đứng áp mặt vào cửa kính, nhìn say mê một vật nào đó được trưng bày bên trong.
Rất lâu, cậu ấy mới quay lại nhìn tôi. “Jin, tôi có thể mua nó không nhỉ?”.
Tôi bước lại bên cạnh cậu. Phía bên trong, trên nền vải nhung màu đỏ sẫm, chỉ có duy nhất một chiếc ống nhòm hiệu Nikon. Cũ kỹ và ế ẩm là ấn tượng duy nhất nó mang lại cho tôi. Ngoài ra, chẳng có điểm thu hút đặc biệt nào khác ngoại trừ những chi tiết làm bằng bạc phát ra tia sáng mờ ảo giữa không gian tối mờ ở nơi đây.
“Chúng ta có thể dùng nó làm gì chứ?”. Tôi hỏi bâng quơ, không cảm thấy hứng thú với món đồ này cho lắm.
“Tôi không biết, biết đâu khi có nó rồi lại chẳng sinh ra những chuyện cần đến”. Kame nhún vai đáp.
“Thôi nào, cậu muốn mua nó, đúng không?”. Tôi đầu hàng. “Muốn, chứ không phải ‘có thể mua’, khác nhau nhiều lắm đấy!”
Kame gật đầu, không buồn đáp lại câu nào. Cậu quay lại phía mặt kính, tiếp tục ngắm chiếc ống nhòm ở bên trong. Tôi không giải thích được sự say mê kỳ lạ này của cậu, nó bắt đầu từ đâu, từ lúc nào và có một ý nghĩa ra sao? Hết thảy những điều đó tôi đều không rõ. Linh cảm cho tôi biết, đó là món đồ không tốt lành, chỉ thế mà thôi. Không nói gì thêm, tôi im lặng đứng nhìn Kame. Nước mưa vương lại trên tóc cậu trông như bụi nước, chợt sáng lấp loé rồi chợt vụt biến mất. Và tôi cảm thấy buồn một chút, vì cái nhìn chăm chú mê say và nỗi mong muốn sở hữu gần như cố chấp cậu dành cho món đồ vô tri bên trong lớp kính kia. Ngoài trời, mưa đã ngớt hạt. Âm thanh chỉ còn là tiếng rì rầm khe khẽ. Dù thế, những giọt mưa vẫn nặng nề rơi xuống bên ngoài mặt đường và hơi lạnh vẫn đủ sức len qua những khe hẹp, lần vào bên trong không gian yên ắng của cửa hiệu cũ. Rồi Kame kéo chốt khoá, lấy chiếc ống nhòm ra và chúng tôi cùng nhau đi về phía người chủ tiệm.
“100 dollars”. Chỉ nhìn qua một cái duy nhất, ông ta nói một cách bình thản.
“Đây là Cửa hiệu 100 yên, có phải không thưa ông?”. Tôi nói, cố tình nhắc lại câu chế giễu khi nãy của ông ta.
“100 dollars. Đây là một ngoại lệ, thưa cậu. Nó không giống tất cả những gì còn lại trong cửa hàng này”. Giọng ông ta không một chút lay chuyển, nhuốm đầy màu sắc huyền bí khi giải thích thêm về cái giá cắt cổ do mình đưa ra . Ồ, theo như ông ta nói thì có khi chiếc ống nhòm này có khả năng đã bị yểm bùa hay bị trấn một lời nguyền nào đó cũng nên?
“Dĩ nhiên, quý khách có quyền không chọn mua nó. Tôi chẳng phiền lòng gì cả. Tôi không cần thiết phải bán món hàng này”. Ông ta nói thêm một cách bình thản khi quan sát vẻ mặt của hai chúng tôi. Sự bình thản đến mức gần như bất cần.
“Tôi có thể trả bằng yên Nhật không? Tôi không có dollars trong người ngay lúc này”. Kame chợt hỏi. Cậu ta vẫn chưa chịu từ bỏ cái ống nhòm cũ kỹ đó.
“Riêng món hàng này, tôi chỉ nhận tiền mặt bằng dollars, thưa cậu”.
“Ưm, dù điều kiện của ông có hơi kỳ quặc một chút nhưng tôi vẫn sẽ quay lại sau, ông có thể hứa là ông sẽ giữ vật này lại cho tôi không?”. Một sự kiên trì khó hiểu hiện ra trong thái độ của Kame. Tôi đã bước lùi về sau, tự bảo mình không nên tham gia thêm nữa vào cuộc mua bán điên rồ này.
“Tôi hứa là tôi sẽ làm thế. Mong gặp lại quý khách lần sau”. Lần đầu tiên ông ta mỉm cười, nhưng trong giọng nói vẫn không lộ ra một chút cảm xúc thực sự nào.
Sau khi trả chiếc ống nhòm về vị trí cũ, chúng tôi nhanh chóng rời khỏi nơi đó, rời khỏi Shinjuku. Lúc này, mưa chỉ còn lất phất những sợi mỏng. Mặt trời mệt mỏi hiện ra sau những đám mây, toả ánh sáng yếu ớt xuống khuôn mặt thành phố. Nước vẫn còn rơi xuống từ những tàng cây hai bên đường. Nhân lúc trời lặng gió, một đàn chim bay đi vội vã từ tầng thượng một toà cao ốc.
Chúng tôi xuống tàu điện ngầm. Một thế giới huyên náo lập tức cuốn lấy, đẩy chúng tôi lao theo nhịp chuyển động hối hả của nó.
Hai chỗ ngồi khuất trong một góc toa. Tàu nhanh chóng rời trạm, lao đi êm ái trên đường ray trải thẳng. Bóng tối trong đường hầm nở rộng rồi chiếm lấy mọi đường nét xung quanh. Một lúc, con tàu trồi lên mặt đất. Ánh mặt trời nhợt nhạt chụp lấy chúng tôi. Quang cảnh quen thuộc của Tokyo hiện ra, áp sát tôi, phình to hơn, trống rỗng và dị dạng. Những hình ảnh giống nhau lặp đi lặp đi, những sắc xám mơ hồ và buồn bã có ở khắp nơi, những hình khối cao ốc thô ráp và trơ trọi. Trong khoảnh khắc chỉ 10 giây ngắn ngủi, chúng biến thành nỗi khiếp sợ, choán đầy trong tôi.
Một lúc nào đó, Kame nhìn qua.
Không nói bất cứ lời nào, chỉ trong im lặng, cậu siết chặt tay tôi.
---tbc
(*) Itadakimasu: câu nói thường được nói trước bữa ăn của người Nhật, thể hiện sự lịch sự và lòng cám ơn, có nghĩa là “Xin cho phép được ăn”